MẠNG NÂNG CAO
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Cài đặt các ứng dụng từ mã nguồn trên Linux

4 posters

Go down

Cài đặt các ứng dụng từ mã nguồn trên Linux Empty Cài đặt các ứng dụng từ mã nguồn trên Linux

Bài gửi  TruongLeNgocThao Tue Dec 18, 2012 9:13 am

Cài đặt các ứng dụng từ mã nguồn trên Linux
Có nhiều bạn khi lần đầu tiên đến với Linux cảm giác sự khó khăn và bất tiện của việc cài đặt các ứng dụng trên Linux, đặc biệt là các ứng dụng phải cài đặt từ mã nguồn như xine, openGL...

Trên Windows, bạn chỉ cần tải ứng dụng về, giải nén rồi click vào file setup là hoàn tất việc cài đặt, nhưng trên Linux đó là một chuyện hoàn toàn khác. Bài viết này sẽ nhằm mục đích hướng dẫn bạn các thao tác cài đặt các phần mềm ứng dụng trên Linux và cung cấp các kiến thức căn bản giúp bạn có thể quản lý hệ thống của riêng mình
Bài viết sẽ giả sử rằng bạn đã biết cách sử dụng một số phần mềm quản lý gói như rpm. Để dễ dàng thì bài viết sẽ gọi các phần mềm trên Linux là các gói (package). Thực tế tên gọi 'gói' đúng đắn hơn vì các gói trên Linux có thể không phải là một trình ứng dụng nào đó mà chỉ là các thư viện nền như thư viện đồ họa Gtk+ hoặc OpenGL...

1. Giới thiệu

Bạn có thể sẽ tự hỏi rằng tại sao các phần mềm trên Linux không tự đóng gói sẵn cho chúng ta rồi khi xuất bạn chỉ cần tải về và cài đặt nó. Câu trả lời nằm ở 2 vấn đề, vấn đề thứ 1 là các phần mềm viết trên Linux không hẳn chỉ có thể chạy trên Linux mà có thể chạy trên nhìều hệ thống khác nhau trong họ Unix như Solaris, AIX, HP-UX... thậm chí các phần mềm đó có thể chạy trên rất nhiều vi xử lý khác nhau như Intel, Motorola, PPC... Có được sự đa năng đó là nhờ vào tính đa nền (portable) của ngôn ngữ C/C++ nhưng đòi hỏi chúng ta phải biên dịch lại phần mềm từ mã nguồn cho hệ thống mà chúng vận hành. Bạn sẽ tự hỏi là tại sao các nhà phát triển lại không biên dịch sẵn cho chúng ta trên hệ thống thông dụng nào đó như Linux chẳng hạn.

Câu trả lời là bởi vì các phần mềm này là phần mềm mã nguồn mở và các nhà phát triển không có cách gì hơn là để lại phần biên dịch cho chúng ta. Tuy nhiên bạn đừng thất vọng vì có một số nhà phát triển rất là tốt bụng có thể biên dịch sẵn cho chúng ta ra các gói có dạng rpm và cùng với sự hỗ trợ của công ty Red Hat chúng ta cũng đã có những chương trình quản lý các phần mềm hiệu quả không kém gì trên Windows như RPM (Redhat Package Manager). Mặc dù là thế nhưng không phải lúc nào các gói mới nhất từ các nhà phát triển gốc đều có phiên bản biên dịch sẵn mà thường là một khỏang thời gian sau các phiên bản đó mới có được dưới dạng biên dịch sẵn. Bên cạnh đó còn có rất nhiều nhà phát triển không hề biên dịch sẵn sản phầm của mình mà đòi hòi người dùng phải biên dịch, điển hình là trình chơi phim và nhạc xine. Các gói biên dịch sẵn các bạn có từ xine đa số là từ các nhà phát triển khác. Do đó nếu bạn không bạn không biết cách cài đặt các gói từ nguồn là một trở ngại rất lớn cho việc hiểu và quản trị hệ thống của riêng mình.

2. Căn bản của việc cài đặt

Điều đầu tiên khi bạn tiến hành cài đặt là bạn phải có mã nguồn của gói đó trước. Hãy lên mạng search bất kì gói nào bạn thích như thư viện Gtk+ hoặc Gnome... Sau khi tải về, thông thường có dạng là .gz hoặc .bz2, đây đều là 2 chuẩn nén khác nhau, sau khi giải nén bằng gunzip cho gz hoặc bunzip2 cho bz2 thì các gói sẽ có dạng mới là tar, cũng là một chuẩn nén khác, bạn có thể giải nén bằng lệnh, tar -xvf... Thế nhưng đế dễ dàng và tiết kiệm dung lượng ổ đĩa thì chúng ta có thể gộp các câu lệnh đó thành 1 như sau:

- Đối với gói .gz: # tar -zxvf tengoi.gz
- Đối với gói .bz2: # tar -jxvf tengoi.bz2

Sau khi giải nén xong và tìm tập tin INSTALL để đọc cụ thể cho phần hướng dẫn cài đặt. Thế nhưng hầu như các gói đều tuân theo các thao tác tuần tự sau:
Code:
# ./configure
# make
# make install

Chỉ có vài gói đặc biệt sẽ có riêng cách cài đặt nhưng khi bạn đã nắm vững nguyên tắc chung thì dù là cách thức nào bạn cũng có thể xoay xở được. Chúng ta hãy xét đến câu lệnh đầu tiên, ./configure... Thực chất configure là một shell script sẽ kiểm tra những yêu cầu của hệ thống của bạn có đáp ứng đủ để cài đặt gói lên không, ví dụ như một số gói đòi hỏi bạn phải có sẵn thư viện đồ họa Gtk 2.4 trở lên hoặc là thư viện để giải nén nhạc Mp3...

Rất nhiều gói có sự phụ thuộc như thế chứ các gói khi tải về không hề có sẵn các gói tương ứng cần thiết cho nó. Khi bạn chạy configure xong kết quả sẽ cho bạn biết các gói nào cần thiết để cài đặt. Nhiệm vụ của bạn không gì hơn là phải tìm các gói phụ thuộc đó cài lên máy rồi mới tiếp tục việc cài đặt. Nếu như hệ thống của bạn thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu để cài đặt thì các Makefile sẽ được tạo ra. Makefile là một file đặc biệt của tiện ích make nhằm hướng dẫn biên dịch mã nguồn của gói ra dạng thực thi.

Sau khi bạn thực thi lệnh 'make' xong thì toàn bộ mã nguồn của gói đã được biên dịch sang dạng thực thi nhưng các file thực thi vẫn còn nằm trên thư mục hiện hành. Do đó bạn cần phải thực hiện thêm lệnh 'make install' để chép các file thực thi đó sang đúng vị trí của nó trên hệ thống. Nếu như không có thông báo lỗi gì xảy ra thì bạn đã hòan tất việc cài đặt gói lên hệ thống của mình.

3. Tổ chức các file trên hệ thống

Bạn hoàn toàn biết thư mục trên Linux thì thư mục /usr là thư mục quan trọng nhất vì nó sẽ chứa các chương trình và hàm thư viện trên đó. Trong thư mục /usr/bin là sẽ chứa các file thực thi cho các gói bạn đã cài đặt trên máy, các file trong thư mục này bạn sẽ thấy các file rất quen thuộc như mozilla, gedit .v.v... Thư mục /usr/lib sẽ chứa các hàm thư viện, bạn sẽ thấy rất nhiều files có phần mở rộng là .so (shared object) là các hàm thư viện liên kết động hoặc .a (archive) hoặc .la đều là các hàm thư viện liên kết tĩnh. Đặc tính căn bản của 2 dạng thư viện này là hàm thư viện liên kết tĩnh sẽ được liên kết thẳng với files thực thi luôn trong quá trình liên kết, còn hàm thư viện liên kết động thì sẽ được liên kết trong quá trình thực thi, cho nên sau khi chương trình đã được biên dịch và liền kết rồi các thư viên tĩnh chúng ta có thể bỏ đi nhưng thư viện liên kết động thì bắt buộc phải đi kèm với chương trình. Thư mục /usr/share sẽ chứa các icon, manual hoặc info của gói.

4. Loại bỏ một gói

Nếu bạn mong muốn lọai bỏ một gói đã cài đặt trên hệthống thì cách duy nhất là bạn phải vào lại thư mục mã nguồn của gói và gõ lệnh make 'uninstall'... thông thường bạn sẽ có các câu lệnh sau: 'make clean' 'make distclean'... Các câu lệnh có ý nghĩa rất tương đối và được định nghĩa trong tập tin Makefile, nên đầu tiên bạn cứ thử với 'make uninstall' rồi 'make clean' cái cuối cùng 'make distclean' là giúp bạn xóa hết các tập tin đã biên dịch ở thư mục nguồn và đồng thời xóa Makefile, bạn phải chạy lại ./configure để tạo lại Makefile.

5. Quản lý các gói

Do việc xóa bỏ một gói như trên rất là phiền phức đôi lúc bạn chẳng thể xóa bỏđược nếu như mất đi mã nguồn, cho nên bạn có thể thay vì cài nó vào thư mục mặc định là /usr thì bạn có thể cài vào các thư mục của riêng bạn, ví dụ như bạn có thể tạo thư mục '/soft'... Sau đó để cài gói gedit thì bạn tạo thêm thư mục /soft/gedit và dùng lệnh ./configure... bạn thêm tùy chọn sau:

./configure --prefix=/soft/gedit

Thì khi bạn gõ make install sẽ copy toàn bộ sang thư mục /soft/gedit. Khi bạn muốn xóa toàn bộ gói thì chỉ đơn giản xóa đi thư mục đó thôi. Lưu ý là khi bạn cài vào thư mục riêng của mình rồi bạn phải tạo 2 đường dẫn cho 2 biến môi trường (environment variable) LD_LIBRARY_PATH và PKG_CONFIG_PATH.

LD_LIBRARY_PATH sẽ có đường dẫn đến thư mục lib của gói vừa tạo (ví dụ như /soft/gedit/lib) còn PKG_CONFIG_PATH sẽ có đường dẫn đến thư mục pkg_config trong thư mục lib (ví dụ như /soft/gedit/lib/pkg_config). Bên cạnh đó nếu bạn muốn chương trình gọi tự động thì bạn cũng nên thêm vào biến PATH cho gói của mình.

6. Lời kết
Đối với cách cài trên thì bạn dể dàng quản lý các gói của mình nhưng đối với các dạng thư viện thì bạn nên cài nó vào thư mục /usr hơn là thư mục riêng của mình vì một số gói sẽ tìm các thư việc trên thư mục mặc định /usr và /usr/local hơn là các thư mục riêng người dùng nên nếu bạn cài lên thư mục riêng thì đôi lúc các thư viện đó sẽ không được tìm ra. Thông thường lệnh ./configure đi đôi với rất nhiều tùy chọn cho phép bạn lựa chọn nhiều tính năng khác nhau, bạn hãy gỏ ./configure --help để mà biết đầy đủ các tùy chọn của gói. Bài viết chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót bằng cách này hay cách khác, rất mong sự góp ý của

TruongLeNgocThao

Tổng số bài gửi : 61
Join date : 20/09/2012
Đến từ : Bình Thuận

Về Đầu Trang Go down

Cài đặt các ứng dụng từ mã nguồn trên Linux Empty mẹo và thủ thuật sau khi cài đặt Ubuntu

Bài gửi  NguyenThiTuyetMai Tue Dec 18, 2012 11:05 am

Quản Trị Mạng - Ubuntu là một trong những hệ điều hành mã nguồn mở hoàn toàn miễn phí. Đây là một distribution ("distro") của Linux có lượng truy cập cao thứ hai chỉ sau Linux Mint tại DistroWatch.

Nếu bạn có hệ thống Ubuntu đi kèm với môi trường mặc định của Gnome desktop được cài đặt trên PC của mình, bài viết sau sẽ cung cấp cho bạn những lời khuyên và thủ thuật hữu ích để làm việc với hệ thống của mình.

Lưu ý rằng các bước được mô tả dưới đây làm việc với Ubuntu 11.04 (đăng nhập với phiên Ubuntu Classic), Ubuntu 10.10 và Ubuntu 10.04.

Bảng tóm tắt các thủ thuật trong bài (kích vào từng liên kết để xem chi tiết):

Panel
Tùy chỉnh Panel
Pin các chương trình vào Panel
Thiết lập panel hoàn toàn trong suốt
Kích hoạt tính năng Superbar
Thay đổi kiểu font chữ và màu của Panel Clock
Window

Di chuyển nút điều khiển cửa sổ sang bên phải
Mở một cửa sổ ở chính giữa màn hình
Cuộn một cửa sổ lên và xuống
Tùy chỉnh Theme
Thiết lập hiệu ứng Aero Glass
Kích hoạt Aero Snap (Ubuntu 10.10 & 10.04)
Desktop

Ẩn biểu tượng các ổ đĩa trên Desktop
Thay đổi các Wallpapers một cách tự động
Các Keyboard Shortcuts

Thêm hoặc thay đổi các phím tắt
Kết thúc các chương trình không phản hồi
Re-start hệ thống mà không cần khởi động lại máy
File Manager
Thiết lập kiểu xem mặc định trong File Manager
Tạo một quản lý tập tin nâng cao
Sound

Thiết lập Output cho âm thanh
Vô hiệu hóa hoặc thay đổi âm thanh đăng nhập
Thêm các Font, Codec và nhiều Software

Cài đặt bổ sung các Font
Kích hoạt Media Playback
Cài đặt Screenlets
Cài đặt các gói Sun Java
Thêm nhiều phần mềm hữu ích
Drive và Partition

Tự động Mount các ổ đĩa khi hệ thống khởi động
Mount thủ công một thiết bị USB
Đặt tên hoặc nhãn một Partition
Startup và Shutdown

Tự động chạy một ứng dụng
Đồng bộ hóa thời gian hệ thống và ngày tháng
Thay đổi các tùy chọn khởi động mặc định
Loại bỏ nhân Linux cũ, làm sạch menu khởi động
Tự động Shutdown hệ thống

NguyenThiTuyetMai

Tổng số bài gửi : 68
Join date : 20/09/2012

Về Đầu Trang Go down

Cài đặt các ứng dụng từ mã nguồn trên Linux Empty Re: Cài đặt các ứng dụng từ mã nguồn trên Linux

Bài gửi  NguyenThiTuyetMai Tue Dec 18, 2012 11:06 am

Tùy chỉnh Panel – bảng điều khiển trong Ubuntu

Theo mặc định, Ubuntu được bao gồm một panel ở trên và phía dưới. Nếu bạn chỉ muốn giữ một bảng điểu khiển ở phía dưới màn hình giống như thanh Windows Taskbar, hãy thực hiện theo các bước sau:

Xóa panel phía dưới: kích chuột phải vào nó và chọn "Delete This Panel".
Di chuyển panel ở trên xuống bên dưới: kích chuột phải vào nó và chọn "Properties", thay đổi định hướng từ "Top" thành "Bottom".
Thêm các nút chạy chương trình: kích chuột phải vào panel, chọn "Add to Panel", cuộn xuống dưới và chọn "Window List", kích "Add".
Thay thế Menu Bar ("Applications-Places-System") với "Main Menu" để tiết kiệm không gian trong bảng điều khiển:
Kích chuột phải vào "Menu Bar" và chọn "Remove From Panel".
Kích chuột phải vào panel, chọn "Add to Panel" và lựa chọn "Main Menu", kích "Add".
Kích chuột phải vào các mục (ví dụ Firefox) và bỏ dấu tích tại "Lock to Panel".
Kích chuột phải "Main Menu", chọn "Move" để định vị nó ở phía bên trái.
Đây là những thay đổi cơ bản. Các panel linh hoạt hơn nhiều so với Windows Taskbar, nhiều mục có thể dễ dàng được thêm vào, loại bỏ hoặc cấu hình.

Main Menu sẽ cho thấy các mục "Lock Screen", "Log Out" và "Shut Down" nếu bạn loại bỏ mục "Indicator Applet Session" (hiển thị tên đăng nhập và nút shutdown ở phía bên phải panel). Ba mục trên sẽ bị ẩn trong Main Menu nếu Indicator Applet Session được bật.

Nếu bạn cần khôi phục các panel gốc, chỉ cần nhập vào các lệnh sau vào Terminal và khởi động lại hệ thống:

sudo gconftool-2 --shutdown
sudo rm -rf .gconf/apps/panel
sudo pkill gnome-panel

Tại bất kỳ thời điểm nào, nếu bạn tùy chỉnh thiết lập desktop gây ra sự cố và muốn thiết lập lại toàn bộ như mặc định, chỉ cần nhập vào lệnh:

sudo rm -rf .gnome .gnome2 .gconf .gconfd .metacity

trong Terminal, thoát ra và đăng nhập lại hệ thống để có hiệu lực.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Pin các chương trình vào Panel

Các chương trình người dùng thường sử dụng có thể dễ dàng được gắn vào panel:

Duyệt tới chương trình cần thiết từ "Applications" hoặc "Main Menu".
Kéo và thả chúng vào một vùng không gian trống trong panel, hoặc kích chuột phải vào đó và chọn "Add this launcher to panel".
Kích chuột phải vào biểu tượng chương trình, chọn "Move" và thả nó vào một vùng mới trong panel.
Kích tiếp chuột phải vào biểu tượng chương trình một lần nữa, chọn "Lock to Panel".
Tương tự, xem tiếp phần “Kích hoạt tính năng Superbar”.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Thiết lập panel hoàn toàn trong suốt

Khi bạn thiết lập các bảng điều khiển trong suốt trong theme Ambiance của Ubuntu, bạn sẽ tìm thấy một số background vẫn có màu nền, nhưng chúng ta có thể làm cho chúng trở nên trong suốt theo các bước sau:

Vào Applications (hoặc Main Menu) > Accessories > Terminal.
Nhập vào cp -R /usr/share/themes/Ambiance ~/.themes/
Nhập tiếp gedit ~/.themes/Ambiance/gtk-2.0/apps/gnome-panel.rc (cho Ubuntu 11.04 hoặc 10.10) hoặc gedit ~/.themes/Ambiance/gtk-2.0/gtkrc (cho Ubuntu 10.04), để mở tập tin với gedit.
Tìm kiếm cho dòng bg_pixmap[NORMAL] = "img/panel.png" (cho Ubuntu 11.04 hoặc 10.10) hoặc bg_pixmap[NORMAL] = "panel_bg.png" (cho Ubuntu 10.04)
Chú thích cho dòng lệnh bằng cách đặt một dấu # ở đầu dòng như: # bg_pixmap[NORMAL] = ...
Lưu lại tập tin.
Vào System > Preferences > Appearance, chuyển sang theme khác sau đó trở lại theme Ambiance.
Nếu bạn muốn thay đổi theme New Wave, nhập vào cp -R /usr/share/themes/"New Wave" ~/.themes/ trong bước 2, nhập tiếp gedit ~/.themes/"New Wave"/gtk-2.0/gtkrc trong bước 3, tìm kiếm và chú thích cho dòng bg_pixmap[NORMAL] = "Images/Panel/PanelBarLong.png" tương ứng trong bước 4 và 5.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Kích hoạt tính năng Superbar

Trong Windows 7, các chương trình thường xuyên sử dụng có thể pin vào taskbar (vì thế được gọi là Superbas). Tương tự như vậy, DockBarX, một plugin Gnome panel có thể được thêm vào Ubuntu để pin và unpin hoặc khởi động ứng dụng từ panel.

Vào Ubuntu Software Center > Edit > Software Source.
Chọn "Other Software" kích "Add".
Tại dòng APT, nhập vào ppa:dockbar-main/ppa, kích "Add Source" và nhấn "Close".
Tại phần bên trái panel của Ubuntu Software Center, chọn "PPA for Dockbar Main Group", được bổ sung sau các bước trên.
Tại phần panel bên phải, chọn DockbarX và kích "Install".
Chờ cho bộ nhớ cache được cập nhật, sau đó kích chuột phải vào panel và kích “Add to Panel”.
Chọn DockBarX Applet và kích "Add".
Một thumbnail (hình ảnh thu nhỏ) xem trước của chương trình đang chạy cũng có sẵn trong DockBarX. Để kích hoạt tính năng này, kích chuột phải vào DockBarX trên panel, chọn Properties > Window List và đánh dấu tích vào "Show Previews". Các tùy chọn khác như appearance, window item và group button có thể được cấu hình bởi những user.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Thay đổi kiểu font chữ và màu của Panel Clock

Kiểu font và màu sắc của Panel Clock được thực hiện theo chủ đề mặc định. Đặc biệt, nếu màu chữ là màu đen và hiển thị trên một nền tối thông qua bảng điều khiển trong suốt, bạn không thể xem đồng hồ được rõ ràng. Tuy nhiên chúng ta có thể khắc phục điều này bằng cách tinh chỉnh để thay đổi màu chữ. Ngoài ra bạn cũng có thể xác định kiểu font cho bảng đồng hồ của mình.

Đoạn code trong bước 1 dưới đây sẽ thiết lập màu chữ thành trắng và áp dụng font DS-Digital in đậm, kích cỡ 16.

Mở trình soạn thảo văn bản Gedit và paste vào đoạn code sau:

style "my-panel-clock"
{
fg[NORMAL] = "#FFFFFF"
font_name = "DS-Digital Bold 16"
}
widget "*.clock-applet-button.*" style "my-panel-clock"

Lưu lại tập tin là .gtkrc-2.0 (bao gồm cả dấu chấm trước tên của file) bên trong thư mục home: /home/your_user_name.

Font DS-Digital có thể tải về tại đây. Sau khi tải về máy, giải nén và cài đặt vào hệ thống để sử dụng. Xem thêm tại mục “Cài đặt các Font bổ sung”.

Các tập tin bắt đầu bằng dấu chấm (.) đại diện cho cho một tập tin ẩn và được nhìn thấy bởi phím Ctrl-H trong trình duyệt tập tin Nautilus (*).

>>> Trở lại bảng danh sách.

Di chuyển nút điều khiển cửa sổ sang bên phải

Nếu hệ thống Ubuntu của bạn được thiết lập các nút Minimize, Maximize, và Close ở bên trái của cửa sổ và bạn muốn thay đổi chúng sang bên phải, chỉ cần thực hiện theo các bước sau:

Nhấn Alt+F2 để mởi cửa sổ "Run Application".
Nhập vào gconf-editor trong hộp và kích “Run” để mở Configuration Editor.
Duyệt tới apps > metacity > general, nhìn vào "button_layout" trên phía bên phải panel.
Thay đổi giá trị trong "button_layout" từ close,minimize,maximize: thành menu:minimize,maximize,close và nhấn Enter.
>>> Trở lại bảng danh sách.

Mở một cửa sổ ở phía trung tâm

Khi chạy một ứng dụng không phải chế độ maximized, Ubuntu luôn đặt nó ở góc trên cùng bên trái của desktop theo mặc định, nhưng bạn có thể thiết lập một cửa sổ được mở ở ngay trung tâm màn hình như sau:

Vào System > Preferences > CompizConfig Settings Manager.
Chọn "Windows Management" từ panel bên trái.
Kích "Place Windows".
Thay đổi chế độ từ "Smart" sang "Centered", kích "Back" và "Close".
Một cách lý tưởng nhất, là người quản lý cửa sổ trong Ubuntu nên khôi phục lại vị trí cuối cùng của cửa sổ ứng dụng, nhưng nó không thực hiện điều đó trừ khi một ứng dụng ghi nhớ vị trí cửa sổ riêng của nó.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Cuộn một cửa sổ lên và xuống

Khi bạn kích đúp vào thanh tiêu đề của một cửa sổ, theo thiết lập mặc định sẽ phóng to cửa sổ đó ở mức cực đại. Kể từ khi có một nút để chúng ta sử dụng cho chức năng này, người dùng có thể thay đổi thiết lập để cuộn cửa sổ khi kích đúp vào thanh tiêu đề của nó.

Vào System > Preferences > Windows.
Trong "Titlebar Action" chọn "Roll up" (hoặc "Shade" nếu có) từ danh sách xổ xuống.
Bây giờ bạn có thể cuộn một cửa sổ khi kích đúp vào thanh tiêu đề, và cuộn nó xuống khi kích đúp lại.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Tùy chỉnh Theme

Các Theme trong Ubuntu có thể được tùy chỉnh để phù hợp với các ứng dụng hoặc nhu cầu của người dùng. Khi thử với theme New Wave và các menu (File, Edit, View…) hầu như không thể nhìn thấy trên nền tối của OpenOffice, nhưng khi tùy chỉnh New Wave với điều khiển Ambiance đã giải quyết được vấn đề. Sau đây là những bước đơn giản để tùy chỉnh một chủ đề, ví dụ như cho phép New Wave kết hợp với điều khiển Ambiance.

Vào System > Preferences > Appearance.
Dưới tab "Theme" kích nút "Customize" trong khi theme "New Wave" được chọn.
Dưới tab "Controls" kích vào bất kỳ mục khác như "Ambiance" và nhấn "Close".
Bây giờ nó đã trở thành Custom theme và bạn có thể lưu lại như một theme mới, như "New Wave with Ambiance Controls".
>>> Trở lại bảng danh sách.

Thiết lập hiệu ứng Aero Glass

Trong Ubuntu bạn có thể thiết lập hiệu ứng tương tự như Aero Glass cho đường viền cửa sổ với alpha trong suốt như có sẵn trong Windows 7.

Nhấn Alt+F2 để mở cửa sổ "Run Application".
Nhập gconf-editor trong hộp box, kích "Run" để mở Configuration Editor.
Duyệt tới apps > gwd, nhìn vào "metacity_theme_active_opacity" ở panel bên phải.
Thay đổi giá trị trong "metacity_theme_active_opacity" từ 1 thành 0.75 (hoặc nhỏ hơn như 0.5 để trong suốt hơn).
Sau đó vào System > Preferences > CompizConfig Settings Manager.
Chọn "Effects" từ panel bên trái.
Đánh dấu vào "Blur Windows" và kích nút "Close" (lưu ý: giá trị mặc định trong Blur Windows có thể được áp dụng).
Nếu hiệu ứng aero glass không làm việc, kiểm tra lại xem bạn đã cập nhật driver hiển thị hay chưa. Vào System > Administration > Additional Drivers, kích hoạt trình điều khiển đồ họa được khuyến cáo và khởi động lại hệ thống.

>>> Trở lại bảng danh sách.

NguyenThiTuyetMai

Tổng số bài gửi : 68
Join date : 20/09/2012

Về Đầu Trang Go down

Cài đặt các ứng dụng từ mã nguồn trên Linux Empty mẹo và thủ thuật sau khi cài đặt Ubuntu

Bài gửi  NguyenThiTuyetMai Tue Dec 18, 2012 11:07 am

Kích hoạt Aero Snap (chỉ dành cho Ubuntu 10.10 & 10.04)

Trong Windows 7, bạn có thể kích và kéo một cửa sổ sang bên trái hoặc phải vùng biên của deskatop, nó sẽ được phóng to ở mức một nửa màn hình, hoặc snap một cửa sổ lên vùng biên trên cùng desktop để phóng to nó ở mức toàn màn hình. Trong Ubuntu 11.04 bạn cũng có thể làm tương tự, nhưng trong Ubuntu 10.10 hoặc 10.04 chúng ta muốn được như vậy cần tinh chỉnh lại một chút như sau:

Cài đặt WmCtrl để quản lý thiết lập CompizConfig nếu chưa có:
Vào Applications (hoặc Main Menu) > Accessories > Terminal.
Nhập vào lệnh sudo apt-get install wmctrl
Nhập vào password khi được yêu cầu.
Vào System > Preferences > CompizConfig Settings Manager.
Chọn "General" từ panel bên trái và kích "Commands".
Trong dòng lệnh 0, 1 và 2 bạn paste vào dòng code sau:
Dòng 0: WIDTH=`xdpyinfo | grep 'dimensions:' | cut -f 2 -d ':' | cut -f 1 -d 'x'` && HALF=$(($WIDTH/2)) && wmctrl -r :ACTIVE: -b add,maximized_vert && wmctrl -r :ACTIVE: -e 0,0,0,$HALF,-1
Dòng 1: WIDTH=`xdpyinfo | grep 'dimensions:' | cut -f 2 -d ':' | cut -f 1 -d 'x'` && HALF=$(($WIDTH/2)) && wmctrl -r :ACTIVE: -b add,maximized_vert && wmctrl -r :ACTIVE: -e 0,$HALF,0,$HALF,-1
Dòng 2: wmctrl -r :ACTIVE: -b add,maximized_vert,maximized_horz
Trong cùng một cửa sổ, kích tab "Edge Bindings".
Thay đổi lệnh Run 0, 1 và 2 từ "None" thành "Left", "Right" và "Top" tương ứng.
Kích nút "Back" và chọn "General Options", thay đổi "Edge Trigger Delay" thành khoảng 500.
>>> Trở lại bảng danh sách.

Ẩn biểu tượng các ổ đĩa trên Desktop

Ubuntu bổ sung các biểu tượng trên desktop cho mọi ổ đĩa di động mà bạn gắn thêm và hệ thống của mình. Các biểu tượng này có thể được ẩn đi nếu người dùng không thích, sau đây là các bước cơ bản:

Nhấn Alt+F2 để mở cửa sổ "Run Application".
Nhập vào gconf-editor, kích “Run” để mở Configuration Editor.
Duyệt tới apps > nautilus > desktop.
Bỏ dấu tích tại "volumes_visible" và đóng cửa sổ đó lại.
Các biểu tượng ổ đĩa sau đó sẽ biến mất khỏi desktop. Hãy nhớ rằng bạn luôn có thể truy cập các ổ đĩa từ "Places".

>>> Trở lại bảng danh sách.

Thay đổi các Wallpapers một cách tự động

Bạn có thể kích chuột phải vào desktop, chọn "Change Desktop Background"và lựa chọn bất kỳ một trong các hình nền được cài đặt sẵn, nhưng khá bất tiện mỗi khi cần thay đổi chúng ta lại phải thực hiện thao tác này từ đầu. Nếu muốn các hình nền tự động thay đổi theo một khoảng thời gian nhất định (gần giống như bộ wallpaper trong Windows 7), hãy thử với Wally.

Vào Applications (hoặc Main Menu) > Ubuntu Software Center, nhập vào wally trong Search box và kích "Install".
Nhấn Alt-F2, nhập wally và nhấn nút "Run".
Kích chuột phải vào biểu tượng Wally trên panel, chọn Settings.
Kích "Folders" trong cột bên trái, sau đó thêm đoạn /usr/share/backgrounds vào Folder box và đánh dấu tích tại "Include subfolders".
Kích "Settings" ở cột trái, đánh dấu tích tại "Play automatically on application starts".
Thiết lập ứng dụng tự động khởi chạy, thực hiện theo hướng dẫn tại mục “Auto Start một ứng dụng” (như tùy chọn của Wally "Start automatically when system starts" bị vô hiệu hóa).
Sau đó hình nền trên desktop của bạn sẽ tự động thay đổi theo những thiết lập cơ bản khi đăng nhập hệ thống (hoặc kích chuột phải vào biểu tượng Wally trên Panel vào chọn “play”).

Nếu bạn muốn có phiên bản mới nhất của Wally với tùy chọn vô hiệu hóa màn hình và tự động thoát, có thể vào trang chủ của nó và tải về. Sau đó kích chuột phải vào tập tin .deb và chọn "Open with Ubuntu Software Center" để cài đặt, và có thể thực hiện như bước 2 ở trên.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Thêm hoặc thay đổi các phím tắt

Các phím tắt được cài sẵn trong hệ thống, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể thêm mới hoặc thay đổi chúng một cách dễ dàng. Chẳng hạn để thay đổi phím Ctrl+Alt+T (chạy một Terminal) thành Win+R (nhấn phím R trong khi giữ phím Windows, cũng được biết đến như Super key), bạn làm như sau:

Vào System > Preferences > Keyboard Shortcuts
Duyệt tới Desktop > "Run a terminal"
Kích vào Shortcut để hiển thị "New shortcut..."
Nhấn Win+R và nó sẽ hiển thị Mod4+R
Kích nút Close và thực hiện tương tự đối với các shortcut mới.
Để vô hiệu hóa một shortcut, nhấn phím Backspace khi nó hiển thị "New shortcut..." sau khi thực hiện bước 3 ở trên.

Các phím tắt bắt đầu với XF86, tham khảo một số phím đặc biệt có sẵn trên bàn phím đa phương tiện.

Các phím tắt có thể thay đổi bằng cách thay đổi giá trị keybinding với Configuration Editor. Nhấn Alt+F2 và nhập vào gconf-editor, điều hướng tới apps > gnome_settings_daemon > keybindings, hoặc apps > metacity > global_keybindings và window_keybindings.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Kết thúc các chương trình không phản hồi

Xkill là một phần của các tiện ích X11 được cài đặt sẵn trong Ubuntu và một công cụ cho việc chấm dứt các X client trục trặc hay các chương trình không đáp ứng. Bạn có thể dễ dàng thêm một phím tắt để khởi chạy xkill với các bước sau:

Vào System > Preferences > Keyboard Shortcuts.
Kích nút Add để tạo một custom shortcut.
Nhập vào xkill tại cả hai trường Name và Command, sau đó kích nút Apply.
Kích Disabled trong hàng xkill của cửa sổ Keyboard Shortcuts (Disabled sau đó được thay đổi thành New shortcut...).
Nhấn một tổ hợp phím mới, chẳng hạn Ctrl+Alt+X (New shortcut... sẽ được đổi thành Ctrl+Alt+X).
Kích nút Close.
Xkill đã sẵn sàng cho việc sử dụng. Nhấn phím kết hợp trên để bật con trỏ chuột tới một X-sign, di chuyển X-sign và thả nó vào một giao diện chương trình để kết thúc các chương trình không thể đáp ứng hoặc hủy bỏ X-sign bằng cách nhấn chuột phải.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Re-start hệ thống mà không cần khởi động lại máy

Nếu bạn nhấn phím Ctrl+Alt+Delete, Ubuntu sẽ hiển thị một menu gồm shutdown, restart, hoặc suspend hệ thống. Tuy nhiên vì lý do nào đó mà hệ thống của bạn bị đóng băng, con trỏ chuột không thể di chuyển, và tất nhiên là giải pháp nhấn Ctrl+Alt+Delete không thể làm việc.

Hãy nhớ rằng có một tổ hợp phím Alt+PrintScreen+K có thể giúp bạn quay trở lại màn hình đăng nhập ngay lập tức mà không cần khởi động lại hệ thống. Đó thực sự là một cách hữu hiệu để tiết kiệm thời gian.

Để thay thế, bạn cũng có thể sử dụng phím Ctrl+Alt+Backspace để làm điều này sau khi đã kích hoạt phím tắt theo bước sau:

Vào System > Preferences > Keyboard.
Chọn tab “Layouts” và kích nút “Options”.
Chọn “Key sequence to kill the X server” và kích hoạt “Control + Alt + Backspace”.
>>> Trở lại bảng danh sách.

Thiết lập kiểu xem mặc định trong File Manager

Windows Explorer cho phép các user thiết lập một cái nhìn mặc định cho toàn bộ thư mục. Cũng tương tự như vậy, trình duyệt file Nautilus của Ubuntu cho phép người dùng thiết lập điều này:

Vào "Places" và mở một folder.
Ở phía trên của File Browser, kích "Edit" và "Preference".
Bên dưới Default View, thay đổi "Icon View" thành "List View", để xem chi tiết hơn trong các cột.
Đánh dấu vào "Show hidden and backup files" nếu bạn muốn.
Còn nhiều thiết lập khác nhau, chẳng hạn như kích chuột đơn hay kích đúp để mở các mục, các icon caption, danh sách các cột, xem trước các file và xử lý các media có thể được thực hiện tốt trong cùng cửa sổ.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Tạo một quản lý tập tin nâng cao

Trong hệ thống tập tin của Ubuntu, bạn có thể sử dụng trình quản lý file Nautilus để duyệt các tập tin nhưng chỉ có thể ghi các tập tin trong thư mục home /home/your_name và những thư mục con (sub-folder) như Desktop hay Documents. Người dùng không thể đổi tên một thư mục hoặc ghi các tập tin ngoài thư mục home bằng cách sử dụng file manager. Tuy nhiên hướng dẫn sau sẽ giúp bạn tạo một trình quản lý file nâng cao để thực hiện điều này.

Vào System > Preferences > Main Menu.
Chọn "Accessories" ở panel bên trái và kích "New Item" ở panel bên phải.
Nhập một tên vào hộp "Name", chẳng hạn Advanced Nautilus.
Nhập gksu nautilus vào hộp "Command"
Kích nút “OK” và nhấn “Close”.
Bây giờ bạn có thể vào Applications (hoặc Main Menu) > Accessories để thấy Advanced Nautilus đã sẵn sàng cho việc sử dụng. Nhưng hãy cẩn thận vì bạn có thể sử dụng nó để xóa hoặc thay đổi bất kỳ tập tin trên hệ thống của mình.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Thiết lập Output cho âm thanh

Khi lần đầu tiên cài đặt Ubuntu vào PC với một thiết bị âm thanh được tích hợp, và thử chạy tập tin media trên một trình player bạn sẽ nhận ra rằng không có âm thanh nào được phát ra. Để nghe được bạn cần thiết lập trong Sound Preferences qua vài bước cơ bản sau:

Vào System > Preferences > Sound để mở cửa sổ Sound Preferences.
Dưới tab Hardware , thay đổi Profile thành Analog Stereo Duplex từ menu xổ xuống.
Dưới tab Output thay đổi Connector thành Analog Output (LFE)/Amplifier từ menu xổ xuống.
Các mục có sẵn trong các trình đơn thả xuống có thể khác nhau tùy thuộc vào thiết bị phần cứng được phát hiện bởi hệ thống, bạn có thể muốn thử với các mục khác trong menu để xem nó có hoạt động với thiết bị của mình. Đó cũng là một cách kiểm tra sự cố âm thanh trong tài liệu hướng dẫn của Ubuntu.

Chạy các tập tin media trong một định dạng độc quyền trên thiết bị chơi nhạc cũng có thể không có âm thanh nếu người dùng không cài đặt các codec cần thiết. Trong trường hợp này bạn có thể tham khảo chuyên mục “Kích hoạt Media Playback” mà chúng tôi trình bày bên dưới.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Vô hiệu hóa hoặc thay đổi âm thanh đăng nhập

Đối với người dùng Windows có thể dễ dàng vô hiệu hóa toàn bộ âm thanh trong hệ thống khi đăng nhập hay thao tác trên máy hoặc thay đổi chúng bằng những bản nhạc ưa thích. Trong Ubuntu cũng vậy, mỗi khi đăng nhập sẽ có âm thanh vang lên, nếu không muốn bạn có thể vô hiệu hóa nó dễ dàng, hoặc thay đổi theo ý thích.

Để vô hiệu hóa âm thanh đăng nhập:

Vào System > Preferences > Startup Applications.
Dưới tab "Startup Programs" bỏ dấu tích tại "GNOME Login Sound"
Kích Close.
Để thay đổi âm thanh, hãy đánh dấu vào "GNOME Login Sound" nếu chưa có, sau đó thực hiện các bước sau:

Nhấn Alt+F2 để mở cửa sổ "Run Application".
Paste vào đó dòng lệnh gksu nautilus /usr/share/sounds/ubuntu/stereo, kích "Run" để mở Nautilus vào đúng thư mục.
Đổi tên gốc của tập tin desktop-login.ogg thành tên khác bất kỳ, chẳng hạn desktop-login-original.ogg để sao lưu.
Copy file âm thanh của bạn trong định dạng ogg ở thư mục trên và đặt tên file là desktop-login.ogg.
Đăng suất và đăng nhập lại để cảm nhận sự khác biệt về âm thanh.
>>> Trở lại bảng danh sách.

Cài đặt bổ sung các Font

Bạn thích các font Windows TrueType làm cài đặt mặc định của Ubuntu? Gói mscorefonts có chứa hầu hết các font của Microsoft có thể được cài đặt và cấu hình dễ dàng trong Ubuntu bằng các bước sau:

Vào Applications (hoặc Main Menu) > Accessories > Terminal.
Paste vào Terminal đoạn code sudo apt-get install ttf-mscorefonts-installer (bằng cách nhấn Ctrl-Shift-V trong Terminal sau đi đã copy đoạn code).
Vào System > Preferences > Appearance > Fonts.
Kích vào từng mục trong số đó, chọn một font chữ và kích thước để cấu.
Vậy làm thế nào để cài đặt nhiều hơn các font TrueType? Với các tập tin font chữ, bạn có thể thêm thủ công chúng vào hệ thống của mình theo các bước dưới đây:

Nhấn Alt+F2 để mở cửa sổ "Run Application".
Paste vào đoạn code gksu nautilus /usr/share/fonts/truetype, kích "Run" để mở Nautilus vào đúng thư mục.
Tạo một thư mục con mới và copy các tập tin của bạn kết thúc bằng .ttf vào đó.
Nhập sudo fc-cache -f –v vào Terminal để xây dựng lại thông tin về font.
Bên cạnh đó, bạn có thể chạy một ứng dụng như Font-Manager để xem, cài đặt, và gỡ bỏ các font.

Nếu bạn thích font Tahoma nhưng không được bao gồm trong gói mscorefonts, bạn có thể copy hai tập tin tahoma.ttf và tahomabd.ttf từ /Windows/Fonts và cài đặt chúng.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Kích hoạt Media Playback

Ubuntu chỉ bao gồm phần mềm hoàn toàn miễn phí bởi mặc định và không cấu hình các media định dạng độc quyền như mp3 hay mp4. Tuy nhiên chỉ cần có các codec chuyên dụng để cài đặt cho trình chơi nhạc mặc định để phát lại các file này.

Kích đúp vào một file mp3 trong thư mục.
Kích nút "Search" khi hiển thị player mặc định với một cửa sổ "Search for suitable plugin?".
Kích "Install" và nút "Confirm" để tài về và cài đặt phần mềm bị hạn chế.
Khởi động lại player sau khi cài đặt các gói.
Bạn có thể làm tương tự cho cách media bị hạn chế về định dạng như mp4.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Cài đặt Screenlets

Screenlets là một ứng dụng nhỏ dùng để thay thế một số ứng dụng như sticky notes, clocks, calendars trên máy để bàn. Bạn có thể khởi chạy một screenlet được cài đặt sẵn từ Screenlet Manager, hoặc cài mới vào Manager để chạy nó. Sau đây là các bước cài đặt và chạy một screenlet, ví dụ: WaterMark System Information.

Cài đặt Screenlets Manager nếu chưa có:

Vào Applications (hoặc Main Menu) -> Ubuntu Software Center.
Nhập screenlets vào trong hộp thoại tìm kiếm.
Lựa chọn Screenlets, kích nút “Install”.
Tải xuống screenlet “WaterMark System Information” vào một thư mục.
Vào Applications (hoặc Main Menu) -> Accessories -> Screenlets.
Kích Install, chọn Install Screenlet và kích nút OK.
Duyệt tới thư mục và chọn tệp tin mà bạn vừa tải xuống ở trên rồi kích “Open” để cài đặt screenlet trong Screenlets Manager.
Chọn screenlet “WaterMark” và kích “Launch/Add”. (mẹo nhỏ: bạn có thể thêm nhiều WaterMark screenlet và thiết lập nó hiển thị thông tin hệ thống khác).
Nhiều screenlets có sẵn cho việc cài đặt bạn có thể tham khảo tại đây.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Cài đặt các gói Sun Java

Ubuntu có thể sử dụng OpenJDK theo mặc định, nhưng lưu ý rằng một số dịch vụ web như ezyZip.com có thể cần Sun Java Runtime Environment (JRE) để cài đặt trong hệ thống cho việc chạy các dịch vụ đúng cách. Nếu bạn muốn có các gói Sun Java độc quyền cho hệ thống của mình, bạn có thể tải về và cài đặt chúng từ Canonical Partner Repository theo hướng dẫn sau:

Vào Applications (hoặc Main Menu) > Accessories > Terminal.
Nhập vào sudo add-apt-repository "deb http://archive.canonical.com/ lucid partner" để thêm các đối tác kho lưu trữ.
Nhập sudo apt-get update để cập nhật danh sách nguồn.
Nhập sudo apt-get install sun-java6-jre sun-java6-plugin sun-java6-fonts để tải về và cài đặt các gói Sun Java. (Nếu được yêu cầu chấp nhận các điều khoản Distributor License for Java (DLJ), bạn sử dụng phím left/right để điều hướng và chọn Yes, sau đó nhấn Enter để cài đặt).
Nhập sudo java -version để kiểm tra phiên bản của Java được dùng trong hệ thống.
Nhập sudo update-alternatives --config java để chọn Java mặc định sử dụng trong hệ thống khi cần thiết.
>>> Trở lại bảng danh sách.

Thêm nhiều phần mềm hữu ích

Ubuntu Software Center cho phép bạn tìm kiếm và nhận được nhiều phần mềm miễn phí. Nếu ứng dụng bạn cần không được bao gồm trong Center, bạn có thể vào System > Administration > Synaptic Package Manager, nhập tên ứng dụng để tìm kiếm và cài đặt một gói phần mềm từ kho lưu trữ.

Ngoài ra bạn còn có thể nhận được ứng dụng phần mềm miễn phí mới nhất bằng cách kích vào nút Install this now từ GetDeb Repository sau khi gói getdeb được cài đặt với các hướng dẫn được đưa ra.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Tự động Mount các ổ đĩa khi hệ thống khởi động

Ubuntu có khả năng đọc và ghi các tập tin lưu trữ trên cửa sổ các phân vùng được định dạng. Nhưng phân vùng cần được “Mount” trước khi chúng có thể được truy cập mỗi thời điểm bạn khởi động hệ thống. Với các bước sau, bạn có thể tự động mount ổ đĩa hoặc phân vùng mà không cần mount bằng tay để truy cập.

Cài đặt Storage Device Manager nếu chưa có:

Vào Applications (hoặc Main Menu) > Ubuntu Software Center.
Nhập pysdm vào Search Box.
Chọn Storage Device Manager, kích nút "Install".
Vào System > Administration > Storage Device Manager.
Mở rộng danh sách của sda và chọn sda nếu bạn muốn tự động mount, kích 'OK' để cấu hình.
Kích nút "Assistant".
Bỏ dấu tích tại "Mount file system in read only mode" và giữ nguyên tại "The file system is mounted at boot time".
Kích lần lượt các nút "Mount", "Apply" và "Close", sau đó khởi động lại hệ thống.
Trong trường hợp bạn muốn bỏ chức năng auto-mount của một ổ đĩa hoặc phân vùng nhất định, bạn có thể sử dụng Storage Device Manager để thực hiện lại thiết lập.

Nếu bạn cần xác định các phân vùng đĩa theo nhãn, chỉ cần paste ls /dev/disk/by-label –g vào Terminal, hoặc để xem kích cỡ phân vùng và hệ thống tập tin, nhập vào sudo fdisk -l. Disk Utility được đề cập trong "Name or Label a Partition" cũng cung cấp cho bạn một cái nhìn về số lượng thiết bị, kiểu phân vùng, kích cỡ và các nhãn (label).

>>> Trở lại bảng danh sách.

Mount thủ công một thiết bị USB

Một thiết bị lưu trữ USB khi được cắm vào hệ thống thường sẽ tự động được mount, nếu vì lý do nào đó quá trình này không thể thực hiện, bạn vẫn có thể mount theo cách thủ công sau:

Vào Applications (hoặc Main Menu) > Accessories > Terminal.
Nhập vào sudo mkdir /media/usb để tạo một điểm mount được gọi là usb.
Nhập sudo fdisk –l để tìm thiết bị USB được cắm vào, ví dụ bạn muốn mount ổ đĩa /dev/sdb1.
Nhập sudo mount -t vfat /dev/sdb1 /media/usb -o uid=1000,gid=100,utf8,dmask=027,fmask=137 để mount ổ USB có định dạng hệ thống FAT16, FAT32. Hoặc nhập sudo mount -t ntfs-3g /dev/sdb1 /media/usb để mount ổ USB có định dạng hệ thống NTFS.
Để bỏ mount nó, chỉ cần nhập sudo umount /media/usb vào trong Terminal.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Đặt tên hoặc nhãn một Partition

Trình quản lý tập tin Nautilus hiển thị thư mục root File System cho phân vùng hệ thống Ubuntu của bạn. Nếu bạn có các phân vùng khác (hoặc các volume), nó sẽ được hiển thị ở dạng xx GB Filesystem nếu không có tên hoặc nhãn.

Sử dụng Disk Utility là một trong những cách hiệu quả để đặt tên cho một phân vùng dễ dàng:

Vào System > Administration > Disk Utility.
Chọn mục Hard Disk.
Trong phần Volumes, kích vào một phân vùng mà bạn muốn đặt nhãn cho nó.
Kích "Edit Filesystem Label".
Trong hộp Label, nhập vào một cái tên, chẳng hạn như “Data-Disk”, kích Apply.
Quản lý tập tin bây giờ sẽ hiển thị nhãn partition, chẳng hạn Data-Disk, thay vì xx GB Filesystem.

Nếu tùy chọn "Edit Filesystem Label" không hiển thị, hãy kích "Unmount Volume" trước đó. Trong trường hợp bạn không thể unmount một volume, hãy thử dùng Storage Device Manager để unmount nó.

Trên đây là mẹo để đặt tên cho phân vùng bằng cách sử dụng Disk Utility, sử dụng các tính năng nâng cao khác như format, edit hoặc delete phân vùng cần thận trọng vì nó có thể xóa dữ liệu trên đĩa của bạn.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Tự động chạy một ứng dụng

Trong Windows, người dùng có thể đặt các shortcut của chương trình/ứng dụng vào thư mục startup để chạy chúng tự động mỗi khi khởi động vào hệ thống. Tương tự như vậy, trong Ubuntu bạn có thể làm điều này bằng cách sau:

Vào System > Preferences > Startup Applications.
Kích nút "Add".
Đặt tên một chương trình.
Kích nút "Browse", điều hướng tới File System > usr > bin, nơi các chương trình thường được cài đặt.
Chọn một chương trình, bấm vào nút "Open" sau đó là nút "Add".
Các chương trình trên sau đó sẽ được liệt kê trong phần startup. Bạn có thể kiểm tra xem chương trình có được chạy tự động bằng cách đăng nhập lại hệ thống.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Đồng bộ hóa thời gian hệ thống và ngày tháng

Ubuntu cho phép bạn thiết lập thủ công hệ thống thời gian và ngày tháng của mình, nhưng bạn có thể kích hoạt sự hỗ trợ của Network Time Protocol (NTP) trong hệ thống để tự động đồng bộ hóa chúng với máy chủ về thời gian trên internet như sau:

Vào System > Preferences > Time & Date.
Kích vào biểu tượng đồng hồ để thay đổi thiết lập.
Chọn múi giờ của bạn trong danh sách time zone.
Nếu kiểu cấu hình là "manual", hãy thay đổi nó để tự động đồng bộ hóa với máy chủ trên Internet. (Trong Ubuntu 11.04, mặc định được để ở chế độ auto.)
Kích "Install NTP support" khi gặp hộp thoại nhắc nhở. (Áp dụng với cả Ubuntu 10.10 & 10.04).
Đánh dấu vào time server(s) gần nhất đối với bạn. (Áp dụng cho cả Ubuntu 10.10 & 10.04).
Kích nút Close.
Khi bạn khởi động hệ thống với kết nối Internet, đồng hồ hệ thống sẽ được đồng bộ hóa với máy chủ thời gian trên Internet.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Thay đổi các tùy chọn khởi động mặc định

Sau khi cài đặt đầy đủ, Ubuntu được thiết lập là hệ điều hành khởi động mặc định nếu không có phím nào được nhấn trong vòng vài giây trên hệ thống đa khởi động. Bạn có thể muốn thiết lập cho hệ điều hành ưa thích khác của mình làm mặc định. Đây là các bước thực hiện dễ dàng với StartUp-Manager.

Vào Applications (hoặc Main Menu) > Accessories > Terminal.
Nhập vào sudo apt-get install startupmanager (copy đoạn code này và nhấn Ctrl-Shift-V để paste vào Terminal ).
Nhập vào password được sử dụng khi cài đặt Ubuntu.
Vào System > Administration > StartUp-Manager.
Nhập vào mật khẩu tương tự để cấu hình các tác vụ, trong đó bao gồm tìm kiếm các bộ tải khởi động cho hệ điều hành.
Chọn hệ điều hành mặc định từ menu xổ xuống, kích "Close" để thực hiện việc cấu hình tác vụ.
Với StartUp-Manager, bạn cũng có thể làm những việc khác như quản lý các theme Usplash, điều chỉnh độ phân giải menu bộ nạp khởi động hoặc thiết lập thời gian chờ trong vài giây. Tránh thay đổi thời gian chờ là 0 giây nếu bạn cần lựa chọn một hệ thống nào đó để khởi động từ menu multi-boot.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Loại bỏ nhân Linux cũ, làm sạch menu khởi động

Mỗi lần cập nhật Ubuntu lên một nhân Linux mới, các cái cũ sẽ bị bỏ lại phía sau khiến menu khởi động kéo dài hơn. Nếu nhân Linux mới của bạn hoạt động tốt, an toàn thì có thể nghĩ tới việc loại bỏ những nhân cũ và làm sạch menu boot. Hãy thực hiện thật chính xác các bước dưới đây, vì nếu nhầm lẫn hệ thống của bạn có thể không khởi động được nữa.

Vào Applications (hoặc Main Menu) > Accessories > Terminal.
Nhập vào uname –r để in ra phiên bản Linux kernel đang chạy (ví dụ 2.6.32-22-generic).
Vào System > Administration > Synaptic Package Manager.
Kích Status từ panel bên trái và chọn Installed.
Nhập vào số của phiên bản chính (ví dụ 2.6.32) trong Search box.
Kích chuột phải lên các mục có số phiên bản phụ nhỏ hơn (ví dụ 2.6.32-21) cho Linux kernel cũ và chọn Mark for Complete Removal. Các tập tin cũ hơn sẽ được loại bỏ có thể bao gồm linux-headers-2.6.32-21, linux-headers-2.6.32-21-generic và linux-image-2.6.32-21-generic.
Kích Apply từ panle bên trên.
Kích tiếp Apply lần nữa từ cửa sổ pop-up để xác nhận việc loại bỏ các gói được đánh dấu. Menu khởi động sẽ được làm sạch tự động sau khi việc loại bỏ được xác nhận.
Grub Customizer cũng có thể được thử dùng để ẩn các mục từ menu khởi động. Chỉ cần cài đặt chương trình bằng cách nhập vào các lệnh dưới đây trong Terminal, sau đó chạy chương trình, bỏ chọn các mục bạn muốn ẩn và kích 'Save'.

sudo add-apt-repository ppa:danielrichter2007/grub-customizer
sudo apt-get update
sudo apt-get install grub-customizer

>>> Trở lại bảng danh sách.

Tự động Shutdown hệ thống

Một lệnh đơn giản có thể nhập vào Terminal để ấn định thời gian shutdown máy tính của bạn.

Vào Applications (hoặc Main Menu) > Accessories > Terminal.
Nhập sudo shutdown -h +m (thay thế m với số phút bạn muốn, chẳng hạn 60).
Hoặc nhập sudo shutdown -h hh:mm (thay thế hh:mm bởi thời gian dạng 24h, ví dụ 23:15).
Nhập password và thu nhỏ cửa sổ Terminal lại.
Hệ thống sẽ được tắt sau khoảng thời gian được chỉ định. Để hủy bỏ lệnh này chỉ cần nhập sudo shutdown -c trong Terminal.

Ngoài ra, bạn có thể muốn tải về và cài đặt Gshutdown, một chương trình GUI (giao diện đồ họa) cho phép lập kế hoạch cho thời gian shutdown hệ thống.

>>> Trở lại bảng danh sách.

Lưu ý

CompizConfig Settings Manager (ccsm), nếu chưa được thêm vào, bạn có thể cài đặt như sau:

Kích "Applications" (hoặc "Main Menu"), chọn "Ubuntu Software Center".
Nhập ccsm vào Search box.
Chọn "Advanced Desktop Effects Settings (ccsm)" và kích nút "Install".
Nhập vào password mà bạn dùng khi cài đặt Ubuntu.
>>> Trở lại bảng danh sách.

Đ.Hải (nguồn Techsupportalert)

NguyenThiTuyetMai

Tổng số bài gửi : 68
Join date : 20/09/2012

Về Đầu Trang Go down

Cài đặt các ứng dụng từ mã nguồn trên Linux Empty Re: Cài đặt các ứng dụng từ mã nguồn trên Linux

Bài gửi  BuiLeNuPhuongTien Tue Dec 18, 2012 11:06 pm

Thanks nhen

BuiLeNuPhuongTien

Tổng số bài gửi : 102
Join date : 20/09/2012

Về Đầu Trang Go down

Cài đặt các ứng dụng từ mã nguồn trên Linux Empty 5 cách dùng các phần mềm windows trong linux

Bài gửi  Lethithuyanh Wed Dec 19, 2012 8:33 am

1. Dùng một phần mềm mã nguồn mở thay thế

Khi một người hỏi tôi họ có thể chạy một phần mềm Windows X nào đó trên Linux được không, điều đầu tiên tôi khuyên họ là hãy tìm một phần mềm mã nguồn mở thay thế. Đối với phần lớn các phần mềm trên Windows đều có một phần mềm trên Linux chất lượng cao có thể đáp ứng các yêu cầu của người dùng.

Rào cản lớn nhất đối với những người không biết Linux đơn giản chỉ là biết rằng có các phần mềm mã nguồn mở thay thế và cách tìm ra chúng.
Chỗ tốt nhất mà tôi tìm các phần mềm đó là www.osalt.com. Tại site này, nhập tên phần mềm Windows, nó sẽ cho bạn một danh sách các phần mềm mã nguồn mở có tính năng tương tự. Bạn chỉ cần kiểm tra từng phần mềm một.

2. Mua một phần mềm thương mại viết cho Linux.

Nếu không tìm thấy một phần mềm mã nguồn mở phù hợp và chưa mua phần mềm trên Windows, bạn nên tính đến việc mua một phần mềm thương mại viết cho Linux.

Tại đây là câu chuyện của một kỹ sư xây dựng muốn tìm một phần mềm mã nguồn mở thay cho AutoCAD (và cả phần mềm quản lý dự án thay cho MS Project là Planner- ND). Anh ta đã thử một vài phần mềm nhưng không có cái nào đáp ứng các yêu cầu. Vì thế, người kỹ sư này đã quyết định mua một phần mềm CAD thương mại viết cho Linux và đã mua BricsCad, dùng tốt và rẻ hơn AutoCAD nhiều (khoảng 350 USD thay cho AutoCAD LT 2007 khoảng 900 USD, bạn cũng có thể thử VariCAD, khoảng 500USD- ND).



3. Dùng Wine để chạy phần mềm Windows trên Linux

Nếu không tìm được phần mềm mã nguồn mở thích hợp và đã mua phần mềm chạy trên Windows, bạn có thể chạy nó trên Linux thông qua phần mềm Wine. Wine là một công cụ mô phỏng môi trường Windows trong Linux. Vì tôi đã mua một bản Warcraft3 trên Windows, tôi đã cấu hình nó để chạy trên Linux thông qua Wine.

Tuy nhiên, việc chạy phần mềm Windows trên Linux có thành công hay không tùy từng phần mềm. Bạn nên kiểm tra cơ sở dữ liệu các ứng dụng wine để xem phần mềm của bạn có chạy được với Wine không.

4. Chạy Windows trong một máy ảo trên Linux.

Trước khi các phần mềm máy ảo phổ biến, mọi người thường cài cả Windows và Linux trên một máy tính dùng chế độ dual-boot. Khi đang chạy một hệ điều hành này, nếu cần một điều gì đó chỉ có trong hệ điều hành kia, bạn phải đóng tất cả các ứng dụng và khởi động lại máy vào hệ điều hành cần thiết.
Quá trình mất thì giờ đó bây giờ có thể thay thế bằng cách cài Windows trong một phần mềm máy ảo chạy trên Linux. Ví dụ, có thể cài phần mềm mã nguồn mở VirtualBox mà tôi đã viết nhận xét về nó. Sau khi đã cài VirtualBox, bạn có thể cài Windows và các phần mềm Windows trong máy ảo. Sau đó bạn có thể đang trong Linux, chạy ngay các phần mềm Windows đó.

5. Chạy các phần mềm trên một máy Windows khác

Cách cuối cùng bạn có thể chạy một phần mềm Windows là chạy nó trên một máy Windows khác nhưng truy cập và điều khiển nó từ máy Linux của bạn. Để làm việc đó, bạn dùng các dịch vụ Terminal có trên các Windows server.

Có thể từ máy Linux, dùng rdesktop (trong Kubuntu: nhấn K Menu – Internet – Krdc để chạy Krdc. Sau khi nhập username và pass của máy Windows, màn hình Windows sẽ hiện lên và ta có thể sử dụng nó chạy các phần mềm trên máy Windows – ND) kết nối vào một máy Windows XP Pro. Tuy nhiên bạn có thể có nhiều máy Linux cùng truy cập vào một máy Windows để chạy một phần mềm Windows. Khi đó có những phần mềm tiện ích phục vụ cho mục đích này. Tên tuổi lớn nhất trong thị trường này là Citrix hoặc Propalms.

Theo blog Hodawa
Lethithuyanh
Lethithuyanh

Tổng số bài gửi : 72
Join date : 21/09/2012

Về Đầu Trang Go down

Cài đặt các ứng dụng từ mã nguồn trên Linux Empty 10 lỗi cần tránh khi cài đặt phần mềm trên Linux

Bài gửi  Lethithuyanh Wed Dec 19, 2012 8:33 am

1. Thực hiện cài đặt từ nguồn khi hệ thống có nền tảng .rpm hay .deb

Nhiều người mới dùng Linux không biết rằng cả rpm và apt (hay dkpg) đều theo dõi mọi phần mềm được cài đặt trên hệ thống. Tuy nhiên, những hệ thống này (rpm, apt và dkpg) chỉ có thể theo dõi những phần mềm mà chúng cài đặt. Vì vậy khi bạn thấy một phần mềm không rõ ràng chỉ được lưu ở nguồn và bạn tự hiệu chỉnh nó thì hệ thống quản lý phần mềm sẽ không theo dõi được nó. Thay vào đó, bạn chỉ cần tạo một file .rpm hay .deb từ nguồn và cài đặt với hệ thống quản lý phần mềm, hệ thống có thể theo dõi mọi phần mềm được cài đặt.

2. Không chú ý tới nhóm ứng dụng quản lý phần mềm đồ họa ngoại vi

Hầu hết người dùng thậm chí không biết ra rằng có nhiều thiết bị đồ họa ngoại vi còn thực hiện đánh giá ngoài việc cài đặt phần mềm trong Linux. Với lệnh yum (một dòng lệnh của hệ thống quản lý phần mềm đối với rpm), bạn có thể sử dụng Yumex cho yum (được cài đặt cùng với yum install yumex), sử dụng Synaptic hay Adept cho apt (được cài đặt với apt-get install synaptic hay apt-get install adept).

3. Không cập nhật danh sách phần mềm hiện có thường xuyên

Khi sử dụng apt-get hay yum, chắc chắn rằng bạn đã cập nhật danh sách phần mềm hiện có, nếu không hệ thống của bạn sẽ không cập nhật được những phần mềm mới được cài đặt. Dùng lệnh apt-get update để cập nhật với apt-get, và dùng lệnh yum check-update để thực hiện cập nhật với yum.

4. Không bổ sung vùng lưu trữ cho yum hay apt-get

Cả yum và apt-get sử dụng danh sách vùng lưu trữ cho biết vị trí những phần mềm hiện có được lưu trữ. Nhưng vùng lưu trữ mặc định (thường được gọi là repos) không bao gồm những phần mềm Linux quen thuộc với Linuxkind. Vì thế nếu bạn thực hiện cài đặt một chương trình thì yum (hay apt-get) sẽ không thể tìm thấy phần mềm đó, rất có thể bạn sẽ phải bổ sung một vùng lưu trữ vào danh sách nguồn.

Đối với yum, những nguồn đó nằm trong file /etc/yum.conf. Còn nguồn của apt-get nằm trong file /etc/apt/sources.list. Sau khi bổ sung một vùng lưu trữ mới, bạn phải thực hiện cập nhật để apt hay rpm nhận biết được vùng mới này.

5. Không thực hiện cài đặt nhanh từ một trình duyệt

Giống như hệ điều hành Windows, khi nhận thấy người dùng đang cố gắng tải về một ứng dụng có thể cài đặt, hệ thống sẽ hỏi xem có muốn hệ thống quản lý phần mềm thực hiện cài đặt file không hay chỉ lưu file vào ổ đĩa. Trong cả hai trường hợp này, hệ thống sẽ yêu cầu bạn nhập mật khẩu gốc (vì thế bạn phải có quyền truy cập để hệ thống tiếp tục làm việc). Phương pháp này khá hữu dụng (thực hiện với hệ thống nền tảng yum hay dpkg) vì nó giúp cho việc định vị và bổ sung các thành phần phụ.

Thông thường, phương pháp này chỉ thực hiện được khi bạn đang tải một file tương thích với hệ thống. Nếu bạn cố gắng tải một file rpm trên một hệ thống nền tảng Debian, thì bạn sẽ không có tùy chọn thực hiện cài đặt file. Tuy nhiên bạn cũng có thể thực hiện cài đặt nhanh bằng cách lựa chọn hộp chọn Always Do This … trong phần popup của Firefox để mỗi lần bạn tải về một file cùng với hệ thống quản lý phần mềm nó sẽ tự động yêu cầu mật khẩu gốc và tiếp tục thực hiện cài đặt.

6. Quên dòng lệnh

Giả sử bạn đã cài đặt một máy chủ sử dụng Ubuntu hay Debian (một cài đặt phổ biến cho những máy chủ Linux) và chưa cài đặt giao diện đồ họa và màn hình. Để thực hiện bảo trì, bạn phải đăng nhập thông qua ssh (thường là như vậy) và bị giới hạn thực hiện lệnh. Dù vậy thì khả năng giữ cho hệ thống luôn ở trạng thái được cập nhật hay cài đặt những ứng dụng mới cũng không bị giới hạn. Bạn vẫn có thể dùng lệnh yum hay apt-get để quản lý phần mềm.

Đối với hệ thống nền tảng Debian, bạn có một lựa chọn khác đó là aptitude. Từ dòng lệnh, nhập lệnh aptitude và bạn sẽ thấy một giao diện khác hẳn so với apt. Hệ thống này rất dễ sử dụng và cung cấp cho bạn những tùy chọn cho phép duy trì một máy chủ không có giao diện đồ họa mà không làm mất đi chức năng nào. Aptitude liệt kê những bản cập nhật bảo mật, phần mềm có thể nâng cấp, phần mềm mới, phần mềm không được cài đặt, phần mềm không dùng được, phần mềm ảo và tác vụ. Khi kiểm tra trong danh sách, bạn không chỉ thấy những phần mềm đã được cài đặt và số lượng những phần mềm mới mà còn có một bản mô tả của mỗi phần mềm. Sau khi sử dụng aptitude, bạn sẽ thấy việc cập nhật phần mềm tron Linux đơn giản như thế nào, thậm chí là từ dòng lệnh thực hiện cập nhật.

7. Không chú ý khi giải nén file tar

Rất nhiều lần bạn thực hiện tải một phần mềm, và ngay lập tức giải nén mà không quan tâm tới nội dung của nó. Thông thường thì việc này không có vấn đề gì. Tuy nhiên cũng có vài trường hợp người tạo file nén/người bảo dưỡng file đã không cho biết toàn bộ nội dung của gói hiện không được lưu trữ trong một thư mục chính hay không. Do đó, thay vì tạo ra một thư mục mới chứa những nội dung của file nén (có thể gồm có hàng trăm file hay thư mục), thì những file này lại bị bung ra trong thư mục bạn giải nén chúng vào đó.

Để tránh điều này, bạn cần tạo một thư mục tạm thời và di chuyển file nén vào đó. Sau đó, khi giải nén, cho dù file nén có nằm trong một thư mục chính hay không thì cũng không đáng lo ngại. Phương pháp này sẽ giúp bạn tiết kiệm được nhiều thời gian dọn dẹp trong những trường hợp tương tự khi mà người tạo file nén không đưa tất cả các file vào một chung một thư mục.

8. Xóa file Makefile

Khi đang cài đặt từ nguồn, bạn có thể sẽ chạy make clean để xóa bỏ những file nguồn không cần thiết. Tuy nhiên nếu bạn xóa bỏ file Makefile thì việc gỡ bỏ không hề dễ dàng. Nếu bạn giữ nó lại, bạn có thể thường xuyên gỡ bỏ những chương trình bằng cách dùng lệnh make uninstall từ thư mục chứa file Makefile.

Chú ý: Không được đặt tất cả các file Makefle vào trong một thu mục. Trước tiên cần đổi tên chúng để biết chúng thuộc về chương trình nào. Khi bạn muốn gỡ bỏ chương trình đó, di chuyển file Makefile sang thư mục khác, đổi lại sang tên cũ và sau đó chạy lệnh uninstall. Sau khi đã gỡ bỏ được chương trình bạn có thể xóa file Makefile của chương trình đó.

9. Cài đặt sai cấu trúc

Bạn có thể thấy rằng nhiều file rpm sẽ có cấu trúc i386, i586. I686, PPC, 64, … Đó là vì nếu trong tên file rpm không có từ “noarch” thì file đó được tạo cho một cấu trúc cụ thể, và khi những file này được tạo ra cho cấu trúc đó thì chúng đã được tùy chỉnh cho phù hợp để chạy tốt hơn. Điều đó có nghĩa là không thể cài đặt một file cấu trúc i586 trên máy chuẩn 386? Tất nhiên là có. Tuy nhiên nó sẽ không chạy hiệu quả như trên cấu trúc chỉ định. Nhưng, hiện giờ bạn không thể cài đặt một file rpm cấu trúc PPC trên cấu trúc x86 vì cấu trúc PPC dành cho bộ chip Motorola. Và bạn cũng không thể cài đặt file cấu trúc 64 bit trên cấu trúc 32 bit. Ngược lại, bạn có thể cài đặt file cấu trúc 32 bit trên cấu trúc 64 bit (như trong trường hợp bạn muốn Firefox chạy với Flash trên máy cấu trúc 64 bit).

10. Không xác đinh được lỗi khi cập nhật kernel

Thông thường việc cập nhật các kernel là một nhiêm vụ của chuyên viên máy tính. Tuy nhiên với hệ thống quản lý gói, bất cứ ai cũng có thể cập nhật kernel. Nhưng cũng có một số vấn đề bạn cần biết. Thứ nhất đó là dung lượng bộ nhớ. Khi tiến hành cập nhật kernel, kernel cũ luôn được giữ lại. Nếu bạn liên tục cập nhật kernel, bộ nhớ hệ thống có thể bị đầy rất nhanh. Vì vậy tốt nhất bạn nên kiểm tra xem những kernel cũ nào có thể xóa bỏ được. Nếu bạn sử dụng rpm, chỉ cần dùng lệnh rpm –qa|grep kernel để kiểm tra bạn đã cài đặt những gì. Bạn có thể gỡ bỏ tất cả ngoại trừ hai kernel được cài đặt cuối cùng. Tốt nhất bạn nên giữ lại hai kernel này phòng trường hợp kernel bạn đang dùng bị lỗi.

Một vấn đề khác có liên quan tới driver của NDIVIA. Nếu bạn sử dụng kho chứa livna, bạn sẽ có cảm giác bị kẹt trong kernel livna. Vì vậy, trước tiên cần tiến hành cập nhật kernel sau đó tải và cài đặt driver của NVIDIA tương thích với kernel đó. Khi đó hệ thống sẽ yêu cầu bạn tìm đúng file rpm cho driver của NVIDIA, nhưng nó sẽ buộc bạn phải sử dụng kernel livna. Có thể bạn đã từng bị kẹt trong hệ thống này và gặp phải những vấn đề về video/kernel bị cô lập với file livna. Nếu đang sử dụng hệ thống Ubuntu, bạn có thể tránh những tình huống này bằng cách sử dụng Envy. Nhóm công cụ này sẽ giúp bạn cài đặt driver NVIDIA tốt nhất mà không làm ảnh hưởng tới kernel yêu thích của bạn. Sau khi kernel được nâng cấp bạn cần khởi động lại máy tính. Đó là lần duy nhất bạn phải khởi động lại máy Linux. Mặc dù bạn không khởi động lại thì máy của bạn vẫn hoạt động bình thường, nhưng nó hoạt động nhờ vào kernel cũ không có các tính năng mới và các biện pháp tăng cường bảo mật (và nhiều tính năng mới bổ sung khác).

Xian Tingiaitri24h.com ( Theo: TechRepublic )
Lethithuyanh
Lethithuyanh

Tổng số bài gửi : 72
Join date : 21/09/2012

Về Đầu Trang Go down

Cài đặt các ứng dụng từ mã nguồn trên Linux Empty Re: Cài đặt các ứng dụng từ mã nguồn trên Linux

Bài gửi  Sponsored content


Sponsored content


Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang


 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết